Thứ Năm, 19 tháng 6, 2025

Kháng cáo trong vụ án hình sự: "Xin giảm án" hay "Kêu oan"


Kháng cáo là quyền của bị cáo, mở ra cơ hội kêu oan hoặc xin giảm án tại phiên toà phúc thẩm (minh hoạ của Chat GPT)

Luật sư Trần Hồng Phong

Kháng cáo trong vụ án hình sự là việc bị cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm, cho rằng mình bị xử oan hoặc hình phạt quá nặng, do vậy đề nghị được xét xử theo trình tự phúc thẩm để kêu oan hoặc xin giảm hình phạt.


I. Căn cứ pháp lý

- Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Chương XXIII: Kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. 

- Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017): Các tình tiết giảm nhẹ.

II. Kháng cáo là gì?

Theo Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Kháng cáo là quyền của người bị kết án, người bào chữa, bị hại và các chủ thể khác nhằm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. 

✔ Đây là một quyền tố tụng quan trọng của bị cáo, nhằm đảm bảo tính khách quan, công bằng của bản án.

✔ Trong bài viết này, chúng tôi chỉ trình bày về quyền kháng cáo của bị cáo (người bị truy tố) và khía cạnh hình sự. 

Theo quy định, một vụ án hình sự sẽ được xét xử qua 2 cấp: sơ thẩm và phúc thẩm (nếu có kháng cáo, kháng nghị). Bản án phúc thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật ngay sau khi Toà tuyên án.

III. Ai có quyền kháng cáo?

Theo Điều 331 và 333 Bộ luật TTHS 2015, bao gồm:

- Bị cáo (người bị truy tố, đã bị xét xử sơ thẩm).

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo (nếu bị cáo là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi)

- Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự.
 
- Người bào chữa, luật sư (nếu được ủy quyền hoặc có yêu cầu của bị cáo). 

IV. Thời hạn kháng cáo: 15 ngày từ khi tuyên án sơ thẩm

Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định thời hạn kháng cáo như sau:

- 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (nếu bị cáo có mặt tại phiên tòa)

- Nếu vắng mặt, tính từ ngày bị cáo nhận được bản án sơ thẩm hợp lệ

V. Hai loại kháng cáo: kêu oan hoặc xin giảm án

Nói chung, về mặt hình sự, bị cáo thường chỉ kháng cáo về một trong hai hướng sau: kêu oan, hoặc xin giảm án. Hoàn toàn thuộc quyền lựa chọn và quyết định của bị cáo.

Bị cáo cũng có thể trình bày và kháng cáo về nhiều vấn đề khác (dân sự) như: xin trả lại tài sản, đề nghị xem xét lại kết quả giám định ...vv. Nhưng về mặt hình sự, nhất thiết phải nêu rõ mình kháng cáo kêu oan hay kháng cáo xin giảm án, để Hội đồng xét xử phúc thẩm có cơ sở xem xét.

Ngay phần đầu phiên toà phúc thẩm, Chủ toạ chắc chắn sẽ hỏi "bị cáo nói rõ kháng cáo kêu oan hay xin giảm án?", để có phương án xét hỏi phù hợp.

1. Kháng cáo kêu oan

Mục đích: khẳng định không phạm tội, yêu cầu Tòa phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, hoặc tuyên bị cáo vô tội.

Nội dung kháng cáo: thường là phủ nhận toàn bộ cáo buộc của Viện kiểm sát và kết luận của Tòa sơ thẩm.

Nếu xét thấy nội dung kháng cáo của bị cáo là có cơ sở (thông qua chứng cứ, lời bào chữa trình bày tại phiên toà phúc thẩm) Tòa phúc thẩm có thể: tuyên hủy án, điều tra lại, hoặc sửa án và tuyên bị cáo vô tội.

Nếu Toà phúc thẩm tuyên bị cáo vô tội, nghĩa là đã kháng cáo kêu oan thành công.

2. Kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt

Mục đích: thừa nhận có hành vi phạm tội, nhưng cho rằng hình phạt do Toà sơ thẩm quá nặng, xin giảm nhẹ hình phạt.

Lý do thường đưa ra:

- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ chưa được xem xét, hoặc bị cáo mới bổ sung thêm tình tiết giảm nhẹ khác trước phiên xử phúc thẩm. Chẳng hạn như bị cáo vừa nộp thêm tiền bồi thường thiệt hại cho nạn nhân (có giấy tờ chứng minh); ...

- Bị cáo ăn năn, đã khắc phục hậu quả trước phiên toà sơ thẩm.

- Hoàn cản gia đình khó khăn, con nhỏ, sức khỏe yếu…

- Có thành tích, cống hiến cho xã hội, được ghi nhận.

- Các tình tiết giảm nhẹ khác, nếu có.

Ghi chú: 

> Thế nào là tình tiết giảm nhẹ được quy định trong Bộ luật hình sự (xem bên dưới). Cần hiểu rõ để cung cấp cho toà phúc thẩm chính xác, hiệu quả.

> Việc dùng từ "xin giảm nhẹ hình phạt" là cách nói nhún nhường, phần nào thể hiện sự ăn năn. Có thể đổi thành "đề nghị được giảm nhẹ hình phạt".

Tòa phúc thẩm có thể: tuyên sửa bản án sơ thẩm và tuyên hình phạt nhẹ hơn. Tức là kháng cáo thành công. 

3. Kháng cáo đề nghị huỷ án sơ thẩm, điều tra xét xử lại từ đầu

Đây là trường hợp khi:

- Bị cáo cho rằng quá trình điều tra có nhiều sai phạm, thiếu sót không thể khắc phục trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, trong khi đó, việc sử dụng kết quả đó để kết án là thiếu khách quan, gây bất lợi cho bị cáo.

- Hoặc bị cáo cho rằng việc xét xử sơ thẩm có những thiếu sót, vi phạm về trình tự, thủ tục, không bảo đảm sự khách quan.

Trong những trường hợp như vậy, bị cáo có thể đề nghị huỷ án sơ thẩm, trả hồ sơ về cho cơ quan điều tra để điều tra, xét xử lại.

Tuy nhiên dù vậy, trong đơn kháng cáo bị cáo vẫn cần phải nói rõ là mình kháng cáo xin giảm án hay kêu oan. Còn đề nghị huỷ án chỉ là nội dung có liên quan, bổ sung.

VI. So sánh: Kháng cáo kêu oan và xin giảm nhẹ


Tiêu chí

Kháng cáo kêu oan

Kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt

Thái độ đối với tội danh

Phủ nhận hoàn toàn việc bị kết tội

Thừa nhận có tội

Mục tiêu

Được tuyên vô tội, sửa án sơ thẩm

Giảm hình phạt

Khả năng rủi ro

Có thể giữ nguyên hoặc tuyên nặng hơn

Thường ít rủi ro hơn

Cách chuẩn bị

Cần chứng cứ mới, bằng chứng ngoại phạm; lập luận bác bỏ được chứng cứ buộc tội ở sơ thẩm

Trình bày hoàn cảnh, tình tiết giảm nhẹ



VII. Lưu ý và lời khuyên của Luật sư Trần Hồng Phong: 

- Trước khi kháng cáo, cần xác định rõ mục tiêu: phủ nhận hay thừa nhận quan điểm kết tội? Bản thân tự đánh giá: mình có thực sự bị oan không? Có đủ cơ sở, chứng cứ để kêu oan không?

- Nếu đánh giá khó kêu oan thành công tại phiên xử phúc thẩm, nhưng thực sự bị oan, thì có thể vẫn kêu oan, đồng thời đề nghị huỷ án sơ thẩm, điều tra xét xử lại.

- Nếu có căn cứ chắc chắn về việc bị oan, nên kiên quyết kháng cáo kêu oan. Tập trung vào việc chứng minh không phạm tội.

- Nếu xác định không bị kết tội oan, thì nên xin giảm án, tập trung vào cssc tình tiết giảm nhẹ mới, chưa được xem xét.

- Bị cáo, hoặc gia đình nên mời luật sư hỗ trợ (lập luận, thu thập chứng cứ) và bào chữa cho bị cáo tại phiên toà phúc thẩm.

- Trên thực tế, cá biệt vẫn có thể có những trường hợp thực sự bị kết án oan. Nhưng không có đủ chứng cứ để bào chữa vì những lý do khách quan. Trong trường hợp này, thay vì kêu oan bị cáo có thể chấp nhận nhận có tội, xin giảm án. Dù sao nếu được giảm án vẫn còn hơn là y án.

VIII. Kết luận

✅ Kháng cáo là quyền quan trọng của bị cáo để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Bị cáo nên sử dụng quyền kháng cáo, kể cả trong trường hợp phạm tội thì vẫn nên kháng cáo xin giảm án.

✅ Kháng cáo kêu oan và xin giảm án là hai hướng đi khác nhau về bản chất và mục tiêu.

✅ Việc lựa chọn loại kháng cáo cần căn cứ vào nội dung vụ án, chứng cứ và khả năng bảo vệ hợp pháp.

✅ Thực tế, tỷ lệ kháng cáo xin giảm án thành công khá cao (có lẽ khoảng 35%), trong khi kháng cáo kêu oan thành công rất thấp (có lẽ dưới 1%).
….

* Quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Điều 331. Người có quyền kháng cáo

1.
Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

2. Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.

3. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.

5. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.

6. Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.
….

* Quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017):

Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s)14 Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t)15 Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x)16 Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
…..

Bài liên quan:


Vũ trụ giả lập