Thứ Hai, 11 tháng 8, 2025

Những tội danh, trường hợp chỉ khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại


Nếu nạn nhân bị xâm hại ở mức độ nghiêm trọng, thì dù nạn nhân không có yêu cầu khởi tố, kẻ thực hiện hành vi phạm tội vẫn bị khởi tố hình sự (minh hoạ của Chat GPT)

Luật sư Trần Hồng Phong

Trong pháp luật hình sự Việt Nam, không phải mọi tội phạm đều được khởi tố bởi cơ quan chức năng Nhà nước. Có những tội danh, hay nói chính xác hơn là những trường hợp tuy có dấu hiệu phạm tội nhưng ở mức độ nhẹ (khoản 1 của điều luật), thì việc khởi tố chỉ được tiến hành khi người bị hại có yêu cầu bằng văn bản. Điều này nhằm bảo vệ quyền tự định đoạt của công dân trong những trường hợp bị xâm phạm nhẹ đến sức khoẻ, danh dự, quyền lợi. 

Vậy đó là những tội danh, trường hợp nào? Cần lưu ý gì? Cần làm gì để tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình một cách hiệu quả? Đó là nội dung bài viết này.
  • Vụ án: Người bênh chó đánh bảo vệ tại phố đi bộ Nguyễn Huệ 


I. Căn cứ pháp lý

Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2021) - về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại - quy định như sau:

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

2. Phân tích cụ thể từng trường hợp theo tội danh

Theo quy định tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự nêu trên, chúng ta thấy rằng nếu thuộc trường hợp “quy định tại khoản 1” trong Bộ luật hình sự, thì cơ quan chức năng chỉ khởi tố khi người bị hại có yêu cầu.

Cụ thể như sau:

1. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác - Khoản 1 Điều 134:

- Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

- Hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm; Dùng a-xít, hóa chất nguy hiểm; nạn nhân là người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người già yếu, người khác không có khả năng tự vệ; ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; có tính chất côn đồ; …vv.

- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh - Khoản 1 Điều 135:

- Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân;

- Hoặc đối với người thân thích

3. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội - Khoản 1 Điều 136:

- Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

- Hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.

4. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác - Khoản 1 - Điều 138:

- Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

5. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính - Khoản 1 Điều 139:

- Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

6. Tội hiếp dâm - Khoản 1 Điều 141:

- Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.

7. Tội cưỡng dâm - Khoản 1 Điều 143:

- Dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.

8. Tội làm nhục người khác - Khoản 1 Điều 155:

- Xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.

9. Tội vu khống - Khoản 1 Điều 156:

- Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

- Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

10. Tội xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp - Khoản 1 Điều 226:

- Cố ý xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; 

- Hoặc gây thiệt hại cho chủ Sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

II. Ví dụ minh họa

Tình huống 1:

Bà T là chủ một tiệm spa, bị một khách hàng phát tán hình ảnh riêng tư kèm lời lẽ xúc phạm trên Facebook. Sau khi xác minh, hành vi có dấu hiệu vu khống và làm nhục người khác. Cơ quan công an chỉ có thể khởi tố vụ án nếu bà T nộp đơn yêu cầu bằng văn bản.

Tình huống 2:

Ông N bị một người hàng xóm tát gây thương tích nhẹ, giám định cho thấy tỷ lệ thương tật là 4%. Đây là hành vi cố ý gây thương tích ở mức độ ít nghiêm trọng. Muốn xử lý hình sự, ông N phải có đơn yêu cầu khởi tố, nếu không, cơ quan điều tra không thể tự khởi tố.

III. Vì sao có quy định này?

Những tội danh nêu trên đa phần liên quan đến danh dự, nhân phẩm, tình cảm, đời tư cá nhân. Việc khởi tố hình sự có thể làm tổn thương thêm người bị hại, đặc biệt khi vụ việc đã được hòa giải hoặc mong muốn giữ kín. Pháp luật trao cho người bị hại quyền quyết định có muốn xử lý hình sự hay không, nhằm:

- Bảo vệ quyền cá nhân và sự riêng tư. Quyền tự quyết.

- Tránh hình sự hóa các tranh chấp xã hội nhỏ.

- Tôn trọng sự hòa giải, tha thứ, đạo đức truyền thống.

IV. Một số lưu ý pháp lý quan trọng

1. Người có quyền yêu cầu khởi tố

- Là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ (nếu bị hại là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi…)

- Đơn yêu cầu khởi tố phải lập bằng văn bản, ký tên, nộp đúng nơi có thẩm quyền như công an, viện kiểm sát, tòa án.

2. Được rút lại yêu cầu

- Trước khi mở phiên toà sơ thẩm, người bị hại có thể rút đơn yêu cầu khởi tố, và vụ án sẽ bị đình chỉ.

- Tuy nhiên, không được nộp lại đơn yêu cầu đối với hành vi đã rút, trừ khi có dấu hiệu bị cưỡng ép hoặc đe dọa khi rút đơn.

3. Người thực hiện hành vi vẫn bị khởi tố dù người bị hại không có yêu cầu nếu thuộc trường hợp nặng, nghiêm trọng

Lưu ý là: theo Khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự, "Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm QUY ĐỊNH TẠI KHOẢN 1 các điều xxx của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại”. Tức là chỉ áp dụng cho các trường hợp phạm tội nhưng ở mức độ nhẹ.

Theo cấu trúc của điều luật trong Bộ luật hình sự, Khoản 1 là nói về các trường hợp nhẹ, Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 là nói về các trường hợp nặng, nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.

Có nghĩa là nếu người thực hiện hành vi nếu có tính chất hay thuộc nghiêm trọng, nặng hơn khoản 1 (như nêu ở phần trên), thì vẫn bị khởi tố hình sự, kể cả trong trường hợp người bị hại không có yêu cầu.

Ví dụ: Nếu ai có hành vi cố ý gây thương tích mà tỷ lệ thương tật 40%, thì dù bị hại không có đơn yêu cầu người thực hiện hành vi vẫn bị khởi tố.

Ví dụ 2: Nếu phạm tội hiếp dâm nhiều lần, có tính chất loạn luân (theo quy định tại Khoản 2 Điều 141 Bộ luật hình sự) thì vẫn bị khởi tố dù nạn nhân không có đơn yêu cầu.

V. Lưu ý và lời khuyên của Luật sư Trần Hồng Phong:

- Nếu quý vị là người bị hại trong các vụ việc thuộc các tội danh và trường hợp nêu trên, hãy suy xét kỹ lưỡng về việc nộp đơn yêu cầu khởi tố để bảo vệ danh dự và sự công bằng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

- Hãy nhờ luật sư tư vấn và soạn thảo đơn, nhằm đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả trong quá trình tố tụng.

- Trong trường hợp quý vị đã gửi đơn yêu cầu khởi tố, nhưng muốn rút lại đơn vì lý do riêng, cần cân nhắc kỹ, bởi quyết định này là một chiều, không thể đảo ngược sau khi vụ án bị đình chỉ.

VI. Kết luận

Việc chỉ khởi tố một số tội danh khi có yêu cầu của người bị hại là cơ chế nhân đạo, linh hoạt và hợp lý trong pháp luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi người cần hiểu rõ quyền và trách nhiệm của mình trong việc sử dụng công cụ pháp lý này.
....




Báo Tuổi Trẻ đưa tin về vụ án

Vụ án: Người bênh chó đánh bảo vệ tại phố đi bộ Nguyễn Huệ

Ngày 7/8/2025, Tòa án Nhân dân khu vực 1, TP.HCM đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử bị cáo H, trú tại quận 8, về tội “cố ý gây thương tích”. Vụ việc bắt nguồn từ vụ xô xát xảy ra ngày 27/2/2025 tại phố đi bộ Nguyễn Huệ, liên quan đến một con chó do bạn gái H dắt theo, vi phạm quy định không được thả rông vật nuôi tại khu vực công cộng.

Theo cáo trạng, vào buổi sáng xảy ra vụ việc, ông N.X.C. – một nhân viên bảo vệ đang làm nhiệm vụ – đã nhắc nhở cặp đôi không được để chó chạy rông trên phố đi bộ. Khi bị nhắc, con chó phản ứng, và bảo vệ dùng gậy nhựa đuổi. Bạn gái của H đã phản ứng mạnh, dẫn đến một cuộc tranh cãi giữa hai bên. Sau đó, H tham gia xô đẩy và đánh nhiều cú vào đầu, mặt ông C. Khi hai bên giằng co, ông C. tìm lấy một cây sắt từ bồn cây để dọa, nhưng bị H giật lấy và đánh vào đầu khiến phía bảo vệ bất tỉnh, dữ liệu giám định ghi nhận thương tích là 4%.

Cơ quan điều tra đã khởi tố H theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự (cố ý gây thương tích, thương tích dưới 11% nhưng dùng hung khí nguy hiểm). H bị bắt tạm giam sau khi bị cáo buộc gây thương tích cho bảo vệ.

Tuy nhiên, tại phiên tòa, ông N.X.C. – bị hại – đã trình bày đã nhận lời xin lỗi từ gia đình bị cáo, kèm theo đó là khoản bồi thường 100 triệu đồng bao gồm chi phí thuốc men, tổn thất tinh thần, danh dự và sức khỏe. Do đó, ông đã ký đơn đề nghị rút yêu cầu khởi tố hình sự đối với H, khẳng định việc ký là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc.

Trước lời khai của bị hại và xét thấy việc ông C. rút đơn là tự nguyện, không có bằng chứng là trái ý muốn, HĐXX đã đưa ra quyết định đình chỉ vụ án hình sự, căn cứ quy định “khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại”. Hội đồng xét xử sau khi nghị án đã tuyên trả tự do ngay tại tòa cho bị cáo H.

Về ý nghĩa pháp lý, trường hợp này là một ví dụ điển hình cho việc người bị hại có quyền quyết định khởi tố hoặc không khởi tố trong những vụ án thuộc loại hành vi gây thương tích quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS. Khi bị hại rút yêu cầu khởi tố, cơ quan tố tụng buộc phải đình chỉ vụ án, nếu các quy định về tố tụng và quyền của bị hại được tuân thủ.

Tóm lại, H được trả tự do tại tòa sau khi bị hại rút đơn khởi tố và nhận được bồi thường. Vụ án nhấn mạnh tính nhân đạo và quyền của người bị hại trong các vụ án hình sự, đồng thời khẳng định việc khởi tố theo yêu cầu của bị hại là một biện pháp pháp lý linh hoạt, nhằm cân bằng giữa xử lý hành vi vi phạm và tạo cơ hội hoà giải, giảm nhẹ hậu quả cho các bên liên quan.
….

Quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017):

Điều 141. Tội hiếp dâm

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

c) Nhiều người hiếp một người;

d) Phạm tội 02 lần trở lên;

đ) Đối với 02 người trở lên;

e) Có tính chất loạn luân;

g) Làm nạn nhân có thai;

h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên;

b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;

c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
....

Bài liên quan:



Vũ trụ giả lập